Loading Các Sự kiện

« Tất cả Các Sự kiện

Event Series Event Series: Lễ Thánh Gia

Lễ Thánh Gia

28 Tháng 12

Lễ Gia Thất

SUY NIỆM CHÚA NHẬT LỄ THÁNH GIA

CÂU HỎI TÌM HIỂU

1. Đọc Lc 2, 41-42. Bạn nghĩ gì về lòng đạo đức của cha mẹ Đức Giêsu qua đoạn Tin Mừng này? Đọc Xh 23,14-17.

2. Đọc Lc 2,43-45. Bạn nghĩ gì về cuộc tìm kiếm con của cha mẹ Đức Giêsu.

3. Đọc Lc 2,46-47. Bạn nghĩ Đức Giêsu năm 12 tuổi có phải là một thần đồng hay một bậc thầy không? Ngài có cần học tập như các trẻ em khác không? Đọc thêm Lc 2,52.

4. Đọc Lc 2,48. Bạn nghĩ gì về câu nói của Đức Maria?

5. Đọc Lc 2,49-50. Câu trả lời của Đức Giêsu vén mở cho ta thấy điều gì về con người Ngài? Tại sao cha mẹ Đức Giêsu lại không hiểu?

6. Đức Giêsu có bị giằng co giữa sự vâng phục cha mẹ và sự vâng phục Thiên Chúa không? Rốt cuộc Đức Giêsu đã chọn ai? Ngài có phải trả giá không? Đọc Lc 2,49.51.

7. Đọc Lc 2,52. Cậu Giêsu lớn lên về những mặt nào? Cậu có lớn lên một cách quân bình không?

8. Đọc Lc 2,19 và Lc 2,51. Mẹ Maria thường có thái độ nào khi gặp một biến cố khó hiểu?

GỢI Ý SUY NIỆM

Qua đoạn Tin Mừng này, bạn học được gì nơi Thánh Gia? Đâu là những đau khổ của các bậc cha mẹ thời nay khi nuôi dạy con cái? Bài Tin Mừng này giúp gì cho các bậc cha mẹ khi gặp xung khắc với con cái?

PHẦN TRẢ LỜI

1. Theo sách Xuất hành 23,14-17, “mỗi năm ba lần, tất cả đàn ông con trai phải đến trước nhan Chúa Tể là ĐỨC CHÚA.” Đó là vào các lễ Bánh Không Men, lễ Mùa gặt và lễ Thu hoạch. Ba lễ này còn được gọi là lễ Vượt Qua, lễ Ngũ Tuần và lễ Lều. Cứ theo luật thì Mẹ Maria không phải lên Đền thờ Giêrusalem vào ba lễ này. Cậu Giêsu trên nguyên tắc cũng không buộc phải giữ luật lên Đền thờ nếu Cậu chưa được coi là con trai trưởng thành (bar mitzvah), thường vào khoảng mười ba tuổi. Bởi đó việc cả gia đình cùng nhau hàng năm lên Đền thờ để mừng lễ Vượt Qua là một dấu hiệu cho thấy lòng đạo đức của họ.

2. Cuộc tìm kiếm này hẳn đã diễn ra trong lo sợ và nước mắt. Ông bà đi từ Đền thờ về nhà một ngày đường mới khám phá là con mình không đi chung với các nhóm bà con thân thuộc. Tìm kiếm và không thấy nên mới trở lại Đền thờ để tìm con. Sau ba ngày mới thấy con trong Đền thờ (Lc 2,46). Đời người tín hữu cũng có những kinh nghiệm tương tự: thấy mất Chúa và đi tìm Chúa.

3. Có những thần học gia dùng đoạn Tin Mừng hôm nay để chứng minh về thần tính của Đức Giêsu. Theo họ, Đức Giêsu ngay từ khi còn là một cậu bé đã có sự khôn ngoan vượt trội, thậm chí siêu đẳng. Cậu đã trò chuyện với các bậc thầy trong Đền thờ và khiến họ phải kinh ngạc về sự hiểu biết của Cậu. Bởi đó có người đã dựa vào đây để kết luận rằng Đức Giêsu là người biết hết mọi sự như Thiên Chúa. Thật ra, nếu đọc kỹ Lc 2,46-47, chúng ta có thể thấy Cậu Giêsu ở lại trong Đền thờ, không phải để dạy dỗ các bậc thầy, nhưng để học hỏi nơi họ. Chẳng rõ Cậu đã ngồi với các vị thầy từ khi nào, nhưng thái độ của Cậu là lắng nghe họ, và đặt những câu hỏi (vì không biết hơn là vì có ý thách đố). Nhưng Cậu cũng là người trả lời những câu hỏi do họ đặt ra. Đây là kiểu dạy học đặc trưng của các rabbi. Dưới mắt các vị thầy này, Cậu Giêsu là một cậu bé có hiểu biết khôn ngoan đáng phục, giống như cậu Đanien ngồi giữa các kỳ lão để phân xử chuyện bà Suzanna (Đn 13,50). Tuy nhiên, chúng ta không nên nghĩ Cậu Giêsu là một thần đồng, vì Cậu cũng lớn lên về mọi mặt nhờ học tập và kinh nghiệm như các thiếu niên bình thường khác (Lc 2,40.52).

4. Sau ba ngày tìm kiếm, hai ông bà sửng sốt khi thấy Con mình ung dung ngồi giữa các vị thầy, đang học hỏi về đạo lý với họ. Mẹ Maria không thể không buông lời trách con: “Này con, sao con lại làm thế với cha mẹ? Này cha con và mẹ đã đau lòng tìm con” (Lc 3,48). Rõ ràng Mẹ không hiểu tại sao Con mình ở lại Đền thờ mà không báo cho cha mẹ biết trước. Mẹ biết Con mình đã lớn, đã có trí khôn để hiểu hậu quả việc mình làm. Mẹ Maria muốn nói cho Con biết ba ngày qua là ba ngày cha mẹ tìm kiếm trong âu lo và nước mắt, vì sợ lạc mất Con vào tay người xấu.

5. Luca 2,49 cho thấy câu trả lời bất ngờ và khó hiểu của Cậu Giêsu trước câu hỏi của Mẹ Maria. Cậu trả lời bằng cách hỏi ngược lại Mẹ của mình bằng hai câu hỏi: “Tại sao Mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết con phải ở nhà của Cha con sao?” Qua câu nói trên của Cậu Giêsu, ta thấy lần đầu tiên Cậu tỏ cho cha mẹ thấy mầu nhiệm của Cậu. Lần đầu tiên Cậu cho thấy sự độc lập của mình trước cha mẹ trần thế, đồng thời cho thấy tương quan thân thiết giữa mình với Thiên Chúa, Đấng mà Cậu gọi là Cha của Con. Chính tiếng gọi của Người Cha ấy đã khiến Cậu phải ở lại Đền thờ, là Nhà của Cha Cậu. Người Cha ấy quan trọng hơn cả cha mẹ trần thế. “Ông bà đã không hiểu lời Ngài nói với họ.” Đức Giêsu vẫn là một mầu nhiệm mà Mẹ Ngài phải suy ngẫm suốt đời.

6. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy một giai đoạn lớn lên của Đức Giêsu. Từ năm mười hai tuổi, Ngài từ từ nhận ra tiếng gọi bên trong của Thiên Chúa mà Ngài âu yếm gọi là Cha của con, Abba. Tiếng gọi ấy lớn dần và chi phối toàn bộ cuộc sống của Ngài. Không phải lúc nào Đức Maria và thánh Giuse cũng hiểu Ngài, hiểu con đường Ngài phải đi theo ý Cha. Chính vì thế cũng có lúc Ngài phải chọn sống theo ý Cha trên trời hơn theo ý cha mẹ trần thế. Đức Giêsu vẫn vâng phục cha mẹ (Lc 2,51), nhưng cũng có lúc Ngài làm cho họ buồn lòng (Lc 2,48). Không thể tránh được mọi giằng co…

7. Cậu Giêsu lớn lên hay tiến bộ về ba phương diện: về khôn ngoan, về vóc dạng và về ân nghĩa trước Thiên Chúa và người ta (Lc 2,52; xem thêm Lc 2,40). Lớn lên hay tiến bộ (prokóptô) là động từ cho thấy mầu nhiệm Nhập Thể. Con Thiên Chúa khi làm người, đã không lớn lên một cách thần kỳ, nhưng lớn lên như chúng ta. Ngài lớn lên quân bình về cả ba mặt. Càng lúc Ngài càng khôn ngoan hơn, cao lớn mạnh mẽ hơn, và có tương quan càng lúc càng sâu hơn với Thiên Chúa và tha nhân. Tất cả sự lớn lên ấy chuẩn bị cho sứ vụ tương lai Cha sẽ trao khi Ngài vào tuổi ba mươi.

8. Khi đọc Lc 2,19.51 ta thấy Đức Maria có thái độ ghi nhớ những chuyện xảy ra và suy đi nghĩ lại trong lòng. Khi gặp những điều mà Mẹ không sao hiểu được. Mẹ Maria thường không gạt đi, nhưng giữ kỹ nơi trái tim để suy nghĩ. Có những biến cố hay lời nói mà Mẹ không thể hiểu ngay, Mẹ cần thời gian để chiêm niệm. Đó là thói quen của Mẹ: cầu nguyện dựa trên những biến cố mỗi ngày.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

THỰC HIỆN Ý CHÚA

Vào đêm Chúa Giê-su sinh hạ tại Bê-lem, những người mục đồng đơn sơ chất phác là những người đầu tiên được loan báo tin mừng vĩ đại này. Sứ thần nói với họ: “Này tôi báo cho các anh một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân. Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít”. Đây quả là một tin mừng trọng đại, vì sự kiện Đấng Cứu Thế sinh hạ được dân Do Thái mong đợi từ nhiều thế hệ. Vậy mà, sự kiện trọng đại ấy lại diễn ra vào đêm đông giá lạnh, và một nơi nghèo nàn đơn sơ, đó là hang đá, nơi cho bò lừa trú ngụ.

Chắc hẳn, khi được thiên thần loan báo, các mục đồng tưởng tượng một khung cảnh huy hoàng như trong các câu chuyện cổ tích. Trái lại, khi đến nơi, họ thấy một khung cảnh hết sức đơn sơ bình dị và quá đỗi quen thuộc. Thánh Lu-ca viết: “Họ gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se và Hài nhi đặt nằm trong máng cỏ”. Một người mẹ, một người cha và một hài nhi, đó là khung cảnh GIA ĐÌNH, hết sức thân thương và quen thuộc. Điều mà các mục đồng được chiêm ngưỡng, xem ra không có gì đặc biệt, nhưng lại là THÁNH GIA. Đó là gia đình của Thánh Giu-se, Đức Trinh nữ và Chúa Giê-su Ngôi Lời nhập thể làm người để cứu độ trần gian. Con Thiên Chúa đã khởi đầu công cuộc cứu độ từ gia đình. Qua mầu nhiệm Nhập thể, Ngôi Hai Thiên Chúa hạ cố làm người như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Người có một quê hương, một gia đình, mặc dù Thánh Giu-se chỉ là người cha nuôi hay người bảo hộ. Hài nhi Giê-su từng ngày lớn lên dưới sự chăm sóc yêu thương của Trinh nữ Ma-ri-a và Thánh Giu-se, để rồi “Người càng thêm tuổi, càng thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa” (Lc 2,40).

Chúa Nhật sau lễ Giáng Sinh, Giáo hội chiêm ngưỡng Thánh Gia. Đây là gương mẫu cho mọi gia đình. Một gia đình nghèo khó, đơn sơ âm thầm trải qua năm tháng tại miền quê Na-da-rét, nhưng đã trở nên trường học cho mọi gia đình, nhất là gia đình các Ki-tô hữu. Việc Ngôi Hai nhập thể đã chọn một gia đình làm nơi khởi đầu cho cuộc sống nhân thế và công cuộc cứu chuộc trần gian, cho thấy gia đình có vai trò quan trọng trong việc đào tạo giáo dục con người, cũng như trong sứ mạng chuyển tải chất men Tin Mừng để giúp mọi người đạt tới ơn Cứu độ.

Đức Giê-su đã đến trần gian để thực thi ý Chúa Cha. Việc Người ở lại trong Đền thờ Giê-ru-sa-lem đã chứng minh điều ấy. Tuy sự kiện này gây phiền muộn cho Thánh Giu-se và Đức Mẹ, nhưng đây là dịp để Đức Giê-su khẳng định, Người hoàn toàn tùy thuộc ý muốn của Chúa Cha và chuyên tâm làm đẹp lòng Ngài. Trước đây chúng ta quen nói: Đức Giê-su “bị lạc” trong Đền Thờ, nhưng nay, nhiều tác giả thích diễn tả chính xác hơn: Đức Giê-su “ở lại” trong Đền Thờ. Có lẽ Thánh Giu-se và Đức Ma-ri-a chưa thực sự hiểu điều ấy, nên hai ông bà sửng sốt ngỡ ngàng. Trước biến cố này, Đức Ma-ri-a vẫn ghi nhớ và luôn suy niệm trong lòng.

Bài đọc trích sách Sa-mu-en giới thiệu với chúng ta một người mẹ khác, đó là bà An-na. Bà đã sinh hạ Sa-mu-en cách lạ thường, vào lúc tuổi đã xế chiều và sau chuyến hành hương cầu nguyện. Sa-mu-en là một đứa trẻ “cầu tự”. Bà An-na đã tuân giữ lời hứa với Chúa, và đem dâng con tại Đền thờ Si-lô, nơi bà đã hành hương cầu nguyện trước đó. Nội dung Bài đọc I muốn nói với chúng ta: Thiên Chúa quyền năng có thể làm những gì mà nơi con người là điều bất khả thi. Tác giả mời gọi chúng ta tin tưởng phó thác nơi quyền năng cao cả của Thiên Chúa và luôn cậy trông vào Ngài. Đó cũng là nội dung của Bài đọc II, trích thư thứ nhất của thánh Gio-an tông đồ. Người môn đệ được Chúa Giê-su yêu mến nhắc nhở chúng ta: “Đây là điều răn của Người: chúng ta phải tin vào danh Đức Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa, và phải yêu thương nhau, theo điều răn Người đã ban cho chúng ta”.

Chúa Nhật lễ Thánh Gia năm nay cũng là ngài khai mạc Năm Thánh thường lệ tại các Giáo phận trên toàn thế giới. Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã long trọng mở Cửa Thánh tại Rô-ma lúc 19h00 (giờ Rô-ma) ngày 24/12. Năm Thánh là thời điểm Hồng Phúc, giúp chúng ta hoán cải nội tâm, canh tân đời sống và thực thi giáo huấn của Tin Mừng. Đức Thánh Cha đã chọn chủ đề cho Năm Thánh 2025 là “Những người hành hương của niềm hy vọng“. Sống trên đời, mỗi chúng ta đều là những người hành hương. Đích điểm của chúng ta được Thánh Phao-lô nói rõ: “Còn chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta” (Pl 3,20). Trong cuộc hành hương trần thế, mỗi chúng ta đều mang trên đôi vai biết bao trăn trở ưu tư của cuộc sống. Tuy vậy, Ki-tô hữu là người luôn hướng về Đức Ki-tô, như niềm hy vọng duy nhất và đích thực của đời mình. Ki-tô hữu cũng là những sứ giả đem niềm hy vọng cho thế giới. Trong Năm Thánh, Giáo hội mời gọi chúng ta hãy lên đường để khẳng định với thế giới đang bị tổn thương hôm nay: Đức Giê-su là niềm hy vọng của chúng ta. Ai tin vào Người sẽ không phải thất vọng.

Xin cho mỗi gia đình trở nên một thánh gia, nơi có Thiên Chúa hiện diện, nơi tràn ngập yêu thương trong tình tương thân tương ái, để mọi người cùng thực thi giới răn yêu thương của Chúa, và làm cho Thánh ý Chúa Cha được thể hiện.

+ ĐTGM. Giu-se Vũ Văn Thiên

GIA ĐÌNH, TÁC PHẨM TUYỆT ĐẸP CỦA THIÊN CHÚA

Tiếp liền sau lễ Giáng Sinh, Giáo hội long trọng cử hành lễ kính Thánh Gia. Lễ kính Thánh Gia năm nay được cử hành trong bối cảnh Giáo hội địa phương mở Cửa Năm Thánh lệ thường 2025 với chủ đề : “Những Người Hành Hương Hy Vọng”. Mừng Chúa Cứu Thế giáng sinh cũng là mừng Gia Đình Thánh, nơi Người sinh sống.

Lễ Giáng Sinh đã chiếu rọi ánh sáng mầu nhiệm nhập thể của Con Thiên Chúa, mở ra một chương mới trong lịch sử phổ quát của người nam và người nữ. “Sự khởi đầu mới này xảy ra trong một gia đình ở Nagiaret. Thiên Chúa đã chọn để được sinh ra “trong một gia đình nhân loại, mà chính Ngài đã lập ra.

Các bài đọc hôm nay từ Cựu Ước đến Tân Ước thật là đẹp, đẹp về cách hành văn, đẹp về nội dung, nhất là đẹp tuyệt vời về cách đối nhân xử thế trong gia đình. Nếu bài đọc I trích sách Đức Huấn Ca dạy con cái phải thảo cha kính mẹ, kèm theo phần phúc là sống lầu dài (x. Hc 3, 3-7. 14-17a). Thì bài đọc II, Thánh Phaolô khuyên: “Hỡi các bà vợ, hãy phục tùng chồng trong Chúa cho phải phép. Hỡi những người chồng, hãy yêu thương vợ mình, đừng đay nghiến nó. Hỡi những người cha, đừng nổi cơn phẫn nộ với con cái, kẻo chúng nên nhát đảm sợ sệt” (Cl 3, 21). Bài Tin Mừng nêu bật vai trò quan trọng của Thánh Giuse, mẫu gương cho bậc làm cha, làm chủ, làm chồng trong các gia đình.

Chúa dựng nên loài người có nam có nữ, và ban cho họ mọi sự. Chúa ban cho họ quyền toàn thế giới! Họ chan hòa trong tình yêu Chúa. Mọi tình yêu Thiên Chúa, mọi vẻ đẹp Thiên Chúa, mọi sự thật Thiên Chúa có trong Chúa, Chúa đều ban hết cho gia đình. Ađam và Evà sống tình thân nghĩa thiết với Thiên Chúa và với nhau, rất hạnh phúc, không phải đau khổ và không phải chết. Nhưng rồi con người tự tách ra khỏi Đấng đã dựng nên họ. Thế là đánh mất tất cả, tình nghĩa vợ chồng phân tán, hết anh em (huynh đệ tương tàn), hết hòa bình, hết tình yêu, cái đẹp và sự thật. Hậu quả là từ đó cho đến nay gia đình luôn ở trong tình trang bị đe dọa do tội lỗi, phá thai, coi thường người già, bất hiếu, sống chung, ly dị.

Tuy nhiên, Thiên Chúa không bỏ rơi gia đình. Vì gia đình được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa trong tình yêu. Nếu Thiên Chúa không yêu thương chúng ta thì Ngài không tạo dựng nên chúng ta. Ngài không dựa vào những gì chúng ta làm, hay thành quả chúng ta có được, Ngài chỉ nhờ vào công nghiệp của Con Ngài là Đức Giêsu giáng thế. Ngài yêu thương chúng ta vô bờ bến. Không ai yêu chúng ta bằng Thiên Chúa. Ngài yêu chúng ta hơn cả chúng ta yêu chúng ta. Muốn cứu vớt gia đình nhân loại, Thiên Chúa đã chọn một gia đình để đến cứu vớt! Đẹp biết bao khi nhìn vào hang đá chúng ta thấy Chúa Cứu Thế đến trần gian, đã chọn sinh ra trong một gia đình nhân loại, mà chính Người đã thiết lập.

Trong buổi triều yết thứ Tư 17/12/2014, Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng gia đình là “quà tặng tuyệt vời mà Chúa ban cho thế gian từ thuở ban đầu khi Ngài trao cho Adam và Eve sứ mạng sinh sôi nảy nở cho đầy mặt đất (x. St 1, 28); quà tặng mà Chúa Giêsu đã khẳng định và ghi dấu vào Tin Mừng của Người”.

Đức Thánh Cha nói rằng: “Như Đức Mẹ Maria và Thánh Giuse đã làm, trước tiên mỗi gia đình Kitô giáo phải tiếp đón Chúa Giêsu, lắng nghe Người, trò chuyện với Người, che chở Người, bảo vệ Người, lớn lên với Người; và bằng cách này, làm cho thế giới tốt đẹp hơn. Chúng ta hãy dành chỗ trong tim và dành những ngày sống cho Chúa. Mẹ Maria và Thánh Giuse cũng đã làm như vậy, và điều này không phải dễ dàng: họ đã phải vượt qua biết bao nhiêu khó khăn! Đó không phải là một gia đình giả tạo hay không thật. Gia đình Nagiarét mời gọi chúng ta tái khám phá ơn gọi và sứ mạng của mỗi gia đình. Vì vậy những gì đã xảy ra trong ba mươi năm ở Nagiarét cũng có thể xảy ra với chúng ta: làm cho tình yêu, chứ không phải ghen ghét, trở nên bình thường; việc giúp đỡ lẫn nhau trở thành điều phổ biến, thay vì sự thờ ơ và thù nghịch. Không phải ngẫu nhiên mà Nagiarét có nghĩa là ‘người gìn giữ’, như Tin Mừng cho chúng ta biết, Mẹ Maria ‘giữ gìn tất cả những điều ấy trong lòng’. Kể từ đó, mỗi khi có một gia đình giữ gìn mầu nhiện này, ngay cả khi gia đình đó ở vùng ngoại biên của thế giới, mầu nhiệm của Con Thiên Chúa, mầu nhiệm Chúa Giêsu đến để cứu độ chúng ta, và Người đến để cứu rỗi thế gian”.

Noi gương Mẹ Maria và Cha thánh Giuse, mỗi gia đình Kitô giáo hãy đón rước Chúa Giêsu, lắng nghe Người, nói chuyện với Người, gìn giữ Người, che chở Người, lớn lên với Người, và như thế chúng ta mới phúc âm hóa gia đình, canh tân giáo xứ và cải tiến thế giới được. Hãy dành cho Chúa một chỗ trong trái tim và ngày sống của chúng ta. Chúng ta hãy phó thác gia đình nhân loại nói chung, và gia đình chúng ta nói riêng cho Thánh Gia Thất che chờ phù trì.

Lạy Ba Ngôi cực thánh ở trần gian là Chúa Giêsu, Đức Maria và thánh Giuse, xin cầu cho chúng con. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

TỔ ẤM GIA ĐÌNH

Gia đình Thánh Gia là gương mẫu tuyệt vời cho mọi gia đình Công Giáo. Hôm nay, chiêm ngắm gia đình Chúa Giêsu trẩy hội lên Đền Giêrusalem dự lễ Vượt Qua, theo chân đoàn người tiến về Đền Thánh trong niềm vui tươi, phấn khởi, lòng ta cũng hân hoan vui sướng. Không dừng lại ở nghi lễ, niềm tin tưởng và phó thác nơi Thiên Chúa còn được minh chứng và xác tín hơn qua những thử thách mà chính Cha Thánh Giuse và Mẹ Maria đã trải qua.

Sau kỳ lễ, hai ông bà trở về, còn cậu bé Giêsu thì ở lại Giêrusalem mà cha mẹ chẳng hay biết (x. Lc 2, 43). Biến cố đã xảy ra khi hai ông bà không tìm thấy con trong đám bà con và người quen thuộc, thế rồi hai ông bà trở lại Giêrusalem mà tìm (x. Lc 2, 44 – 45). Chẳng lẽ cậu bé Giêsu bị lạc? Ai đã thất lạc con mới hiểu được tâm trạng của Cha Giuse và Mẹ Maria lúc này. Có lẽ, các ngài đã rất lo lắng, hoảng hốt và khổ tâm, nhưng các ngài không đổ lỗi cho nhau mà hiệp lực tìm kiếm con. Các ngài tìm con trong niềm hy vọng, tín thác nơi Thiên Chúa. Sau ba ngày vất vả cực lòng tìm kiếm, các ngài mới tìm thấy con trong Đền Thờ, đang ngồi giữa các thầy dạy, vừa nghe họ vừa đặt câu hỏi (x. Lc 2, 46). Bao lo lắng như tan biến bởi vì Giêsu đang ở đây. Giêsu không mải mê chơi với đám bạn nào đó, không la cà vào các hàng quán, nhưng đang ngồi giữa các thầy dạy, vừa nghe họ vừa đặt câu hỏi.  Giêsu ở lại là vì ham học hỏi lời Thiên Chúa hay vì lòng yêu mến Thiên Chúa? Trước sự sửng sốt và lời bộc bạch nỗi lòng của Mẹ, Giêsu đã trả lời: “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà Cha con sao?” (Lc 2, 49). Có đôi khi ta cũng đã ngạc nhiên khi ai đó thực hiện bổn phận yêu mến Thiên Chúa và ta không hiểu được rằng ta cũng có bổn phận ở nhà Thiên Chúa. Tìm kiếm Thiên Chúa và yêu mến Thiên Chúa là một hành trình đầy gian nan và thử thách, một hành trình giúp ta tôi luyện đức tin và lòng mến. Có nhiều khi ta cũng không hiểu được điều Thiên Chúa mời gọi ta nhưng ta hãy xác tín điều Thiên Chúa muốn luôn là điều tốt nhất cho ta.

“Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nadarét và hằng vâng phục các ngài” (Lc 2, 51). Yêu mến Thiên Chúa là thái độ sẵn sàng vâng lời cha mẹ. Nếu mỗi người con trong gia đình cũng biết noi gương trẻ Giêsu, hằng vâng lời cha mẹ thì sẽ ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta (x. Lc 2, 52). Bởi vì những lời dạy dỗ, bảo ban của cha mẹ đều xuất phát từ tình yêu. Cha mẹ yêu kính và thờ phượng Thiên Chúa trên hết mọi sự, luôn tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa trong mọi sự để dạy dỗ con cái theo đúng thánh ý Thiên Chúa, dành cho con một tình yêu đón nhận, tha thứ, hy sinh, lắng nghe. Một gia đình hạnh phúc thật sự là một tổ ấm, mà nơi đó cso Thiên Chúa là trụng tâm. Nơi ấy vợ chồng đón nhận nhau, cha mẹ đón nhận và yêu thương, chăm lo săn sóc và giáo dục con cái; và con cái biết thảo kính cha mẹ như lời Chúa dạy. Một gia đình hạnh phúc phải là một gia đình đầy tràn tình yêu và niềm tin kính Thiên Chúa. Thái độ lắng nghe và thực hành lời Chúa sẽ là điều căn bản để gia đình trở thành một tổ ấm. Chỉ có tình yêu mới làm cho con cái lớn lên và trưởng thành.

Lạy Thiên Chúa là Cha toàn năng! Ngài đã muốn cho Con Một yêu dấu làm con Đức Trinh Nữ Maria và Thánh Giuse, để cho nhân loại chúng con gương mẫu tuyệt vời là gia đình Nadarét. Xin cho chúng con hằng biết noi gương các ngài xây dựng gia đình thánh thiện, một lòng phụng thờ Chúa trên hết mọi sự và cùng yêu thương, nâng đỡ nhau và đón nhận nhau. Amen.

Bông Hồng Nhỏ

GIA ĐÌNH CÙNG NHAU HÀNH HƯƠNG NĂM THÁNH

Để làm người, Ngôi Hai Thiên Chúa chọn cách làm con, sống như mọi người con trong gia đình. Chúa là con trong tay Đức Mẹ và thánh Giuse. Chúa để cha mẹ săn sóc, bồng ẵm, cho bú mớm, nuôi dưỡng và lớn lên trong tay cha mẹ. Chúa làm con “hoàn hảo” đến nỗi, không bao giờ Đức Mẹ và thánh Giuse phải ngỡ ngàng vì bất chợt “thấy Chúa” hơn là “thấy con” nơi trẻ Giêsu.

Chính vì làm người không khác người, nhưng như mọi người là người mà thánh giá đã oằn trên vai Chúa Giêsu như những thử thách đi qua đời của từng con người. Những đau khổ của Chúa luôn có liên can đến gia đình của Chúa.

Ngay trong mầu nhiệm Giáng Sinh và Ẩn Dật, chúng ta đã có thể nhận ra thánh giá của Chúa Giêsu, của Đức Mẹ, của thánh Giuse. Và thánh giá của Đức Mẹ cũng như của thánh Giuse chính là sự hiệp thông và liên đới hoàn toàn với Chúa Giêsu, người Con Một yêu quý của các ngài.

Như bao gia đình, Thánh Gia không thiếu ngày ấm áp đan xen ngày bão tố. Chắc chắn trong gia đình ấy đơm đầy khoảnh khắc an vui, ngọt bùi, nhưng cũng chẳng thiếu lo âu, khổ đau, nước mắt và thách thức…

Và cây thánh giá không chỉ xuất hiện trong gia đình Thánh ở quá khứ hay hiện tại, mà còn hứa hẹn tương lai: “Trẻ này… là mục tiêu cho người ta chống đối. Về phần bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà”.

Tin Mừng hôm nay nói về việc Chúa Giêsu ở lại Đền Thờ để đến nổi Đức Mẹ và thánh Giuse phải lao đao tìm kiếm là một trong những tường thuật của Tin Mừng cho thánh cây thánh giá trong gia đình Thánh này.

Năm 12 tuổi, Chúa Giêsu cùng cha mẹ hành hương Đền thờ. Với người Do thái, 12 tuổi là tuổi trưởng thành. Sau khi dự lễ, Chúa Giêsu ở lại Đền thờ tranh luận với các tiến sĩ luật. Chúa bộc lộ sự khôn ngoan của mình.

Nhưng chính thời gian dài đến ba ngày tìm Chúa là thời gian mà lòng Đức Mẹ và thánh Giuse như bị nung đốt. Đến lúc gặp Chúa, họ lại được nghe những lời dễ chạnh lòng, nếu cho rằng đó là lời xúc phạm: “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết rằng con phải lo việc nhà Cha con sao?”.

Nhưng đặt ra ngoài tất cả những đau khổ và thánh giá, thì nét đẹp thánh thiện của cả gia đình hành hương là nét đẹp khó có gì thay thế. Đức Mẹ, Chúa Giêsu, thánh Giuse hành hương Đền thờ Giêrusalem là bài học dạy chúng ta hãy lên đường hành hương và cầu nguyện.

Hôm nay lễ Thánh Gia, mọi Hội Thánh địa phương khai mạc Năm Thánh cho địa phương, vùng miền, quốc gia, giáo phận… của mình. Tại quê hương, tại nơi sinh sống, chúng ta được mời gọi hãy hành hương, hãy tiến về Nhà Thiên Chúa, hãy lên đường để lãnh ân xá, lãnh ơn thánh, không chỉ cho riêng từng người, từng gia đình mà còn cho mọi người, mọi nơi, mọi hoàn cảnh…

Việc hành hương của gia đình Thánh còn nói cho các gia đình và cho từng người ý thức rằng:

– Thân phận của mỗi người sống trên dương gian chỉ là thân phận lữ khách. Chúng ta sẽ về đến Đền là Nhà Cha chung vĩnh cửu. 

– Đây là thời gian dành cho bất cứ ai nhận ra thân phận tội lỗi nhằm ăn năn sám hối, hoán cải đời sống để được tha các hình phạt do tội gây ra.

Vậy bắt chước Thánh Gia, các bậc cha mẹ hãy hướng dẫn, hãy cùng  con cái đi đến nhà Chúa để thánh hoá và xin ơn thánh hóa gia đình mình.

Không khác gia đình Thánh Gia, gia đình mỗi chúng ta cũng chan đầy khổ đau, lo âu, bệnh tật, thất bại, nước mắt, sự mất mát, sự thiếu thốn, sự suy sụp, thậm chí đứng sát bờ vực của gục ngã, hay đã từng gục ngã… Cây thánh giá đã từng xuất hiện và sẽ còn xuất hiện trong gia đình từng người.

Hãy cùng nhau, cả gia đình chứ không phải từng cá nhân riêng lẻ, đi về Nhà Chúa:

– Trước tiên là sự quy tụ cùng nhau trong chính gia đình để cầu nguyện, để sớt chia cho nhau niềm vui, hạnh phúc, và cả nhũng nỗi buồn, những gánh vác, nhọc nhằn, âu lo… Hãy cùng nhau cầu nguyện ngay trong gia đình. Hãy phó dâng lên Chúa mọi suông sẻ lẫn thách đó mà gia đình đang đối diện.

– Kế đến, đưa nhau đến nhà thờ giáo xứ tham dự các nghi lễ phụng tự, cùng thờ lạy Chúa, cùng nhìn ngắm Chúa Giêsu Thánh Thể, cùng cầu nguyện, cùng lãnh bí tích, nhất là Mình Thánh Chúa và giải tội…

– Sau cùng, Năm Thánh luôn có những hoạt động đạo đức và phụng vụ, những nơi, những nhà thờ được chỉ định để hành hương và lãnh ân xá. Trong mỗi dịp có thể, cha mẹ và các con cháu hãy trẫy lên Nhà Chúa bằng những cuộc hành hương diễn tả lòng mến Chúa, để càng ngày càng gắn bó với nhau hơn, giúp nhau nuôi dưỡng tinh thần đức tin, nuôi dưỡng lòng yêu mến Chúa ngày một sâu sắc hơn. Gia đình có Chúa luôn là bảo đảm gia đình hạnh phúc.

Đức Thánh Cha nói: “Thật quan trọng biết bao cho gia đình cùng nhau cầu nguyện trước các bữa ăn, để cảm tạ Chúa về các ơn và để học chia sẻ những gì đã nhận lãnh với người thiếu thốn hơn. Tất cả đều là các cử chỉ nhỏ nhặt, nhưng chúng diễn tả vài trò giáo dục lớn mà gia đình có được” (Đức Phanxicô – Bài giảng Lễ Thánh Gia ngày 27/12/2015).

Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng

TRẺ GIÊSU TRONG ĐỀN THÁNH GIÊRUSALEM

“Con có bổn phận ở nhà của Cha con” (Lc 2:49)

Chúa Giêsu vừa bước sang tuổi mười hai, độ tuổi mà theo người Do Thái thời đó là khá trưởng thành về mặt đức tin. Người con trai rời bỏ tuổi thơ để hòa nhập vào đời sống xã hội. Chúa Giêsu biểu lộ sự trưởng thành và tư thế tự do thực thi ý Chúa Cha của mình. Cùng với cha mẹ lên Đền thờ Giêrusalem để mừng lễ Vượt qua nhưng Ngài ở lại đó mà không báo cho cha mẹ biết. Mẹ Maria và Thánh Giuse tưởng Ngài ở trong đoàn lữ hành, nhưng thực ra Ngài không ở trong đoàn người đó. Ngài vượt ra khỏi khuôn khổ gia đình phàm nhân, khỏi mối liên hệ họ hàng trần gian, vốn gắn bó với nề nếp và di sản của dòng tộc loài người. Ngài vượt lên khỏi những thói quen và truyền thống của con người, khỏi Lề luật… Ngài thuộc về nơi khác, thuộc về Thiên Chúa, Cha của Ngài, như trong bài đọc thứ nhất, bà Anna, mẹ của ngôn sứ Samuel, đã nói với ông Encana, chồng bà: “Đợi cho đến khi đứa trẻ cai sữa đã. Khi đó em sẽ đưa nó đi, nó sẽ ra mắt Chúa và sẽ ở lại đó mãi mãi” (1 Sm 1:22). Bà còn nói với tư tế Êli rằng: “Thưa ngài, xin thứ lỗi, tôi xin lấy mạng sống ngài mà thề: tôi là người đàn bà đã đứng bên ngài, tại đây, để cầu nguyện với Chúa. Tôi đã cầu nguyện để được đứa trẻ này, và Chúa đã ban cho tôi điều tôi đã xin Ngài. Đến lượt tôi, tôi xin nhượng nó lại cho Chúa. Mọi ngày đời nó, nó sẽ được nhượng cho Chúa” (1 Sm 1: 26-28). Chúa Giêsu biết rằng Ngài thuộc về Thiên Chúa: “Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” (Lc 2:49). Dĩ nhiên, hai ông bà ngơ ngác không hiểu! Nhưng sau đó, Chúa Giêsu trở về Nadarét cùng với cha mẹ. Tin Mừng cho thấy Chúa Giêsu là một người trưởng thành như thế nào khi kết rằng: “Chúa Giêsu ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta” (Lc 2: 52).

Liệu Chúa Giêsu có phải là người con thoát ly gia đình ngay khi còn trẻ không? Không phải thế, mà ngược lại, Ngài ở lại trong nhà Cha của mình, không chạy trốn đâu hết. Nếu Thánh Giuse và Mẹ Maria ngạc nhiên, lo lắng, thì với Chúa Giêsu, rõ ràng Đền Thờ là nơi Ngài phải đến, là nơi Ngài hiệp thông tự nhiên với Chúa Cha. 

Tại sao chúng ta phải đến nhà thờ? Chúng ta tìm kiếm gì ở đó? Đối với nhiều Kitô hữu ngày nay, nhà thờ dường như là một nơi ít có sự thân thiết, ít có tình huynh đệ cảm thông thực sự. Vì thế, chúng ta phải tìm lại cảm giác bình an như trong gia đình, gần gũi với Chúa Cha và anh chị em mình. Điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta cố gắng quay lại nhà thờ như trở về ngôi nhà thời thơ ấu đầy kỷ niệm, nơi chúng ta tìm được lại chính mình là ai một cách sâu sắc, tìm thấy lại gia đình mình ở đó? Trong nhà thờ, chúng ta có thể lắng nghe Lời Chúa, suy ngẫm, rước lấy Mình Thánh Chúa Kitô, gặp gỡ những anh chị em Kitô hữu khác và rồi sau đó được lớn lên trong sự khôn ngoan và ân sủng, ở chính nơi chúng ta sinh sống, trong gia đình, trong môi trường làm việc của chúng ta. Nhà thờ có thể là nguồn suối, nơi chúng ta gặp Chúa, gặp anh chị em chúng ta, chứ không chỉ đơn giản là một bổn phận tôn giáo nặng tính bó buộc hay chỉ là những nghi lễ hình thức bên ngoài chẳng mấy cảm xúc ấn tượng. Ở nhà thờ chúng ta có thể trở thành những người con của Cha. Có lẽ những người thân yêu, bạn bè của chúng ta khó hiểu, nhưng chúng ta nên giải thích cho họ rằng đó là một nơi tự nhiên đối với chúng ta, một nơi thân thiết. Chúng ta hãy cầu xin rằng một ngày nào đó họ sẽ hiểu ra rằng người ta hoàn toàn là chính mình chính khi ở nhà thờ. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho họ được “ngạc nhiên” (Lc 2: 47) về chứng tá niềm vui giản dị của chúng ta khi đến nhà thờ và thúc đẩy họ, đến lượt của họ, bước vào trong nhà của Cha.

“Sau ba ngày, hai ông bà mới tìm thấy con” (Lc 2:46)

Việc Mẹ Maria và Thánh Giuse lạc mất và tìm gặp Con mình trong đền thờ khi lên 12 tuổi đã phá tan sự im lặng từ khi Chúa Giêsu được sinh ra tới lúc Ngài ra hoạt động công khai. Câu chuyện ghi chú rằng Mẹ Maria và Thánh Giuse khá lo lắng vì “Không thấy con đâu” (Lc 2:45), nhưng sau ba ngày đã tìm thấy Ngài. Theo Sách Thánh, khoảng thời gian ba ngày này đầy ý nghĩa vì đây là ngày đặc biệt mà Thiên Chúa tạo ra sự sống mới và thiết giao ước của mình với nhân loại, qua Israel. Thiên Chúa ngự xuống trên Núi Xinai vào ngày thứ ba: “Chúa phán với ông Môsê: Hãy đến với dân và bảo họ: hôm nay và ngày mai phải giữ mình cho khỏi nhiễm uế, phải giặt quần áo, và đến ngày kia phải sẵn sàng, vì ngày kia Chúa sẽ ngự xuống trên núi Xinai trước mắt toàn dân… Đến ngày thứ ba, ngay từ sáng, có sấm chớp, mây mù dày đặc trên núi, và có tiếng tù và thổi rất mạnh…Cả núi Xinai nghi ngút khói, vì Chúa ngự trong đám lửa mà xuống; khói bốc lên như khói lò lửa và cả núi rung chuyển mạnh. Tiếng tù và mỗi lúc một tăng lên rất mạnh. Ông Môsê nói, và Thiên Chúa trả lời trong tiếng sấm. Chúa ngự xuống trên núi Xinai, trên đỉnh núi” (Xh 19:10-20). Cũng như câu chuyện Giôna ở trong bụng con cá lớn 3 ngày: “Chúa khiến một con cá lớn nuốt ông Giôna. Ông Giôna ở trong bụng cá ba ngày ba đêm. Từ trong bụng cá, ông Giôna cầu nguyện cùng Chúa, Thiên Chúa của ông. Ông nói: Từ cảnh ngặt nghèo, tôi kêu lên Chúa, Ngài đã thương đáp lời. Lạy Chúa, từ lòng âm phủ, con cầu cứu, Ngài đã nghe tiếng con” (2:1-3). Ngôn sứ Hôsê cũng ghi nhận việc Chúa hoàn lại cho Israel sự sống vào ngày thứ ba: “Ngài đã xé nát thân chúng ta, nhưng rồi lại chữa lành. Ngài đã đánh đập chúng ta, nhưng rồi lại băng bó vết thương. Sau hai ngày, Ngài sẽ hoàn lại cho chúng ta sự sống; ngày thứ ba, sẽ cho chúng ta trỗi dậy, và chúng ta sẽ được sống trước nhan Ngài” (6: 1-2). Như thế ý tưởng chết đi rồi sống lại vào ngày thứ ba đã bắt đầu từ lâu trong Cựu Ước. Mẹ Maria đã phải xa cách Con mình ba ngày trước khi tìm lại được. Hẳn là điều này ám chỉ khoảng thời gian Chúa Giêsu được mai táng trước khi sống lại. Hơn nữa, Tân Ước cho biết rằng biến cố Tử nạn và Phục sinh của Chúa Giêsu diễn ra tại Giêrusalem, nơi Ngài hoàn tất công việc mà Chúa Cha đã định trước. Mẹ Maria và Thánh Giuse đã phải cực lòng như thể Chúa Giêsu đã mất ba ngày rồi: “Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!” (Lc 2: 48). Đúng là Chúa Giêsu đã được Chúa Cha định trước phải chết, ngay lúc còn nhỏ, nhưng đến “ngày thứ ba Ngài sống lại như lời Thánh Kinh. Ngài lên trời, ngự bên hữu Ðức Chúa Cha” (Kinh tin kính Nicea, được đọc trong thánh lễ Chúa nhật và lễ trọng).

Một trong những nỗi buồn chán trong cuộc đời là cảm thấy cuộc sống của chúng ta không đi đến đâu cả, không có ý nghĩa gì cả. Chúng ta mơ – với một chút mơ hồ – sẽ đạt được điều gì đó thực sự tuyệt vời và có giá trị trường tồn. Nhưng rồi chúng ta thức dậy và mọi thứ cứ thật nhỏ nhoi, tầm thường và vô nghĩa. Chúng ta được dựng nên để sống với khát khao về một ý nghĩa, một mục đích, một vận mệnh quan trọng. Chúng ta mong muốn rằng những gì đang xảy ra trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, bất kể tầm thường và bình thường đến đâu, đều là một bước dẫn tới một điều tuyệt vời, tốt đẹp và tươi sáng vào ngày mai, chứ không phải sinh ra để chờ chết, chết không ý nghĩa, không giá trị, chỉ là tuyệt vọng mãi mãi.

Chúa Giêsu cũng được sinh ra để rồi cũng phải chết, nhưng cái chết của Ngài làm cho hiện hữu của mọi người và mỗi người tràn đầy giá trị, ý nghĩa và hy vọng vào sự sống đời đời vinh quang sau cái chết thể lý. Nhờ cái chết vì yêu thương của Chúa Giêsu, “là của lễ đền bù tội lỗi chúng ta” (1 Ga 2:2) mà chúng ta được giải thoát trọn vẹn khỏi số phận “ngồi nơi tăm tối và trong bóng tử thần” (Lc 1:79), không còn lệ thuộc thế gian chóng qua, nhưng “nhờ đức tin, tất cả đều là con cái Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô”  (Gl 3:26), thuộc về Chúa Cha, “ở nhà của Cha” (Lc 2:49). Thánh Phaolô chỉ cho chúng ta thấy vận mệnh quan trọng và tươi sáng đó nhờ cái chết theo đúng kỳ hạn của Chúa Giêsu: “Quả vậy, khi chúng ta không có sức làm được gì vì còn là hạng người vô đạo, thì theo đúng kỳ hạn, Chúa Kitô đã chết vì chúng ta…ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5: 5-8). Thánh Gioan trong bài đọc thứ hai còn nhấn mạnh: “Anh em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào: Ngài yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa – mà thực sự chúng ta là con Thiên Chúa” (1 Ga 3:1).

 “Thêm khôn ngoan, ân nghĩa với Thiên Chúa và người ta” (Lc 2:52)

Ở đây một lần nữa Thánh Luca cho thấy Chúa Giêsu phát triển rất bình thường, có quá trình trưởng thành như một người bình thường. Với Ngài, cũng như với những người khác, sự khôn ngoan ngày càng phát triển theo năm tháng, và đi vào tâm hồn con người của Ngài như đi vào tâm hồn của những người khác – ví dụ, qua sự hướng dẫn ở trường học Nadarét, qua các buổi nghe Sách Thánh ở hội đường của cộng đồng – điểm khác biệt là trong mọi giai đoạn lớn lên, Ngài đều đạt đến sự hoàn hảo về sự khôn ngoan, đạo đức và tâm linh của giai đoạn đó; không có tội lỗi, sự ích kỷ hay kiêu ngạo nào trong Ngài, vốn là những điều ngăn cản sự khôn ngoan phát triển nơi những người khác.

Bản tính thần linh của Chúa Giêsu mãi mãi hoàn hảo nên không thể có sự tăng thêm. Việc ngày càng thêm khôn ngoan, thêm ân nghĩa được thánh Luca nói đến ở đây chỉ liên quan đến bản tính con người của Chúa Giêsu, bao gồm một linh hồn có lý tính và một thân xác con người. Thân thể Ngài tăng trưởng về vóc dáng và sức nặng, và linh hồn Ngài tăng trưởng về sự khôn ngoan và về tất cả các tư chất của một tinh thần con người. Bản tính con người của Chúa Giêsu nhận được sự sáng soi tỏ tường và tiệm tiến khi Ngài dần lớn lên. Mặc dù Ngôi Lời vĩnh cửu đã kết hợp với linh hồn nhân loại của Ngài ngay từ khi Ngài mới sinh ra, đúng hơn là ngay khi Ngài tượng thai trong cung lòng Mẹ Maria, nhưng thần tính ngự trong Ngài đã tự biểu lộ ra cùng với nhân tính của Ngài tùy theo từng giai đoạn, quidquid recipitur ad modum recipientis recipitur – bất cứ điều gì nhận được đều được nhận theo cách của người nhận, nghĩa là tùy mức độ nhân tính đó có khả năng tiếp nhận bao nhiêu  phẩm tính thần linh; và khi các khả năng của linh hồn nhân loại của Ngài ngày càng triển nở, thì sự thông truyền hiểu biết, sự khôn ngoan và các ân tứ khác lớn hơn từ thần tính được thông truyền cho nhân tính đó. Và Ngài “thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta” (Lc 2: 52) nghĩa là, Ngài có được tất cả những ân sủng khiến Ngài được cả Thiên Chúa và con người chấp nhận. Tất cả những điều này phù hợp với phận người khiêm hạ của Ngài; vì khi Ngài hạ mình xuống làm một trẻ sơ sinh, dần lớn lên thành một trẻ em, rồi trở thành một thanh niên, thì hình ảnh của Thiên Chúa tỏa sáng dần lên trong Ngài khi Ngài lớn lên thành một thanh niên, hơn là khi Ngài còn là một trẻ sơ sinh và một trẻ em.

Chúng ta hãy cầu xin cho con cháu của chúng ta, những người trẻ, khi họ lớn lên về vóc dáng, họ cũng được lớn lên về sự khôn ngoan và ân sủng; và rồi, khi họ lớn lên về sự khôn ngoan và ân sủng, họ cũng lớn lên trong “ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta” (Lc 2: 52).

Chúng ta cũng cầu xin, như thánh Gioan trong bài đọc thứ hai, cho chính mỗi người chúng ta cũng lớn lên trong “ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta”, nghĩa là biết “tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa…ở lại trong Thiên Chúa…và biết được Thiên Chúa ở lại trong chúng ta, đó là nhờ Thần Khí Ngài đã ban cho chúng ta” (1 Ga 3: 24) để rồi chúng ta thực hành lời căn dặn của Thánh Phaolô: “Anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau. Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo” (Cl 3:12-14). Cụ thể chúng ta biến đổi gia đình mình thành một gia đình thánh theo gương mẫu Thánh Gia: “Người làm vợ hãy phục tùng chồng, như thế mới xứng đáng là người thuộc về Chúa. Người làm chồng hãy yêu thương chứ đừng cay nghiệt với vợ. Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là điều đẹp lòng Chúa. Những bậc làm cha mẹ đừng làm cho con cái bực tức, kẻo chúng ngã lòng” (Cl 3:18-21).

Phêrô Phạm Văn Trung

HAI VỊ THẦY Ở NA-DA-RÉT

Khi chàng thanh niên Phan-xi-cô A-xi-di-ô bắt đầu bước vào cuộc sống “ngông cuồng”, bỏ công việc làm ăn của gia đình, “chôm đồ nhà” cho người nghèo khổ, lẻn đến trại cùi với bệnh nhân, đi ăn xin để sống qua ngày, kiếm vôi vữa đá gạch sửa lại mấy ngôi nhà nguyện đổ nát, hát nghêu ngao ngoài đường ca ngợi tình yêu Thiên Chúa, rồi có lúc không trở về nhà nữa… thì ông Béc-na-đô-nê, thân phụ Phan-xi-cô hết sức xấu hổ và tức giận, còn bà mẹ thì đau khổ cách âm thầm. Bữa nọ, nghe ngoài phố có tiếng reo hò, ông chạy ra thì thấy một bọn trẻ con đang theo sau Phan-xi-cô, ném những thứ dơ dáy vào người chàng, trong lúc chàng vẫn tỏ vẻ hiên ngang vui vẻ. Ông liền nhào tới, nện cho chàng hai quả đấm như trời giáng khiến chàng sụm xuống tại chỗ. Lôi chàng vào nhà, ông nhốt chàng xuống ngay hầm rượu, bỏ đói, còn cấm vợ giáp mặt con. Nhưng vài hôm sau, vì chuyện làm ăn, ông phải rời gia đình. Vẫn giữ chìa khóa hầm rượu trong mình, ông ra lệnh cho vợ mỗi ngày chỉ cho Phan-xi-cô ăn hai bữa thôi. Đợi chồng đi khỏi, bà Béc-na-đô-nê cho người phá tung cửa, ôm lấy con, nước mắt ràn rụa. Phan-xi-cô giãi bày với mẹ tất cả các bí ẩn và dự định trong tâm hồn mình. Thấy con muốn trở lại cảnh sống chàng đã chọn, tuy đau khổ, bà vẫn nói với con: “Con hãy làm theo những gì Chúa soi sáng,” Rồi bà sắm sửa cho chàng những gì cần dùng. Trở về, ông Béc-na-đô-nê lôi thằng con “mất dạy” tới đức giám mục để xin người xử kiện. Trước mặt bá tánh, Phan-xi-cô đã khước từ quyền thừa kế để chọn sống con đường nghèo khó. Chàng cũng trút luôn mảnh xiêm y cuối cùng trên người, trả lại cho cha và tuyên bố: “Từ nay, con chỉ còn có một Cha trên trời mà thôi.”

Nỗi đau khổ của song thân Phan-xi-cô trước một sự đoạn tuyệt vì Thiên Chúa và Nước Trời, cũng là nỗi đau khổ mà ta có thể thấy được nơi song thân Đức Giê-su trong bài Tin Mừng hôm nay. Nhưng trong cả hai câu chuyện đều có những bài học thấm thía.

Quả thế, khởi sự tại Giê-ru-sa-lem, trong Đền Thờ, với cuộc truyền tin cho ông Da-ca-ri-a về việc chào đời của vị Tẩy giả, Tin Mừng Lu-ca về thời thơ ấu của Đức Giê-su cũng kết thúc trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem với cảnh tượng lạ lùng của “cậu bé-thầy dạy”, nội dung bài Tin Mừng lễ Thánh gia hôm nay. Đỉnh cao của trình thuật nằm trong câu đáp khô khan Đức Giê-su đưa ra cho song thân đang khắc khoải: “Cha mẹ không biết là con có bổn phận là ở nhà của Cha con à!” Tuy nhiên, với thái độ “ghi nhớ tất cả những điều ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng”, Đức Ma-ri-a cũng trở thành thầy dạy cho hết thảy chúng ta về một phương diện khác.

Bài Học Của Đứa Con

Đức Giê-su đưa ra một phân biệt rõ rệt giữa gia đình trần gian của Người với gia đình mầu nhiệm vốn là nơi Người đã phát xuất. Thốt lên từ “Cha”, Đức Giê-su mạc khải mầu nhiệm thần linh của mình. Ơn gọi của Người không phải là phục vụ một gia đình dầu thánh thiện của tạo vật nhân loại, nhưng là để Cha trên trời sử dụng tùy nghi.

Tuy nhiên, cậu bé đưa ra lời tuyên bố có vẻ nổi loạn ấy cũng chính là kẻ ngoan ngoãn theo cha mẹ lên Giê-ru-sa-lem mỗi năm dịp lễ Vượt Qua, chính là kẻ nhận lời quở trách: “Con ơi, sao con lại làm cho cha mẹ như thế?” chính là kẻ ngoan ngoãn theo cha mẹ trên con đường về Na-da-rét quê cũ, chính là kẻ “vâng phục các đấng”, cho dẫu đã thành niên và được phú bẩm chính sự khôn ngoan của Thiên Chúa lẫn sự thông thái của Sa-lô-mon, cho dẫu sự khôn ngoan của Người lớn dần với tuổi tác, sức vóc và ân sủng.

Đức vâng lời của Đức Giê-su bên trong gia đình khiêm tốn ấy do đó trở thành gương mẫu. Hơn nữa, như một học giả về trang Tin Mừng này là cha R.E. Brown đã viết: “Đức vâng lời đó hết sức gây xúc động vì nằm bên cạnh sự thông minh của Đức Giê-su, vốn khiến tất cả ngạc nhiên và thán phục. Còn gây xúc động hơn nữa vì nằm bên cạnh ‘tham vọng’ to lớn của Đức Giê-su là làm nhiều bổn phận và ơn gọi mà cha mẹ Người không tài nào hiểu nổi.” Thái độ của Đức Giê-su là dấu chỉ cho thấy Người hiến thân cho con người, Người ra công phục vụ chứ chẳng muốn được phục vụ.

Đàng khác, Đức Ma-ri-a bắt đầu hiểu bằng kinh nghiệm sống rằng khoảng cách giữa mình với Con không phải là dấu tách xa nhưng là gần lại, vì với đức tin, bà ngày càng đi vào chương trình cứu rỗi mà Đức Ki-tô sắp thực hiện.

Dẫu sao, bên trong bức tranh ấy, đó là một yếu tố có thể chấp nhận bởi mọi gia đình. Nếu người con phải biết hiếu kính đón nhận tình yêu của cha mẹ, thì cha mẹ phải biết rằng con của họ có một số mệnh mà họ không thể xác định trước. Họ có thể mơ ước về đứa con mình theo hình ảnh của mình hay như kẻ thực hiện những dự phóng to lớn, nhưng cuối cùng họ phải biết chấp nhận nó đúng như con người nó, với các sở trường sở đoản của nó, với số phận khiêm hèn hay vinh quang của nó. Luôn biết cho và biết nhận, ấy là dấu chỉ của tình yêu.

Trái lại, thống trị hay xem đứa con, ông chồng bà vợ như sở hữu riêng, đó là sản phẩm của một tâm hồn ty tiện và chẳng có khả năng “suy đi nghĩ lại trong long.” Nếu chấp nhận một từ nguyên vắn gọn nhưng sâu sắc về mặt sư phạm, thì “quyền bính” đích thực (auctoritas, danh từ la-tinh) có nghĩa là “làm cho lớn lên” (augeo, auctum, augere động từ la-tinh). “Người phải lớn lên còn tôi nhỏ lại.”

Đó là kiểu cách của gia đình Na-da-rét, là kiểu cách của chính “gia đạo” theo thánh Phao-lô: “Như Hội Thánh phục tùng Đức Ki-tô, thì vợ cũng phải phục tùng chồng trong mọi sự như thế. Người làm chồng hãy yêu thương vợ, như chính Đức Ki-tô yêu thương Hội Thánh… Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ trong Chúa… Những người cha, đừng làm con cái tức giận” (Ep 5,24-25; 6,1.4).

Bài Học Của Bà Mẹ

Sau bài học của đứa con, tiếp đây là bài học của bà mẹ. Qua câu “Đức Ma-ri-a hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng”, Tin Mừng phác họa cho ta chân dung của Đức Ma-ri-a như vị linh sư tuyệt hảo, khiến ta chẳng cần phải đi tìm các linh sư (Ấn giáo, Phật giáo, Hồi giáo…) như đang là cái “mốt” trong nhiều giới Ki-tô hữu hiện thời. Nơi bà, đức tin đang tác động cách sâu thẳm, vì chẳng đời nào có ai sẽ phải đào sâu như thế, sẽ phải sống những điều gây hoang mang như thế.

Bà là người Do-thái, được giáo dục theo lối Do-thái. Việc trở thành mẹ Đấng Mê-si-a, như mọi thiếu nữ đều mơ ước, đã làm bà choáng ngợp và thỏa mãn. Tuy nhiên đã có những biến cố gây ngỡ ngàng mà trước tiên là việc thụ thai đồng trinh cách nhiệm lạ. Lập tức bà đã tỏ ra muốn tìm kiếm chân lý: “Tôi sẽ làm mẹ cách nào?” – “Thánh Thần sẽ đến trên bà.”

Đó đã là điều cần phải suy niệm, và Ma-ri-a đã bắt đầu một con đường đầy những câu hỏi ngày càng day dứt, băn khoăn. Là người Do-thái, bà sẽ phải dần dần chấp nhận tư tưởng Đấng Độc Nhất có một người con, và người con ấy là Giê-su! Rồi bà phải làm quen với ý tưởng: Đấng Mê-si-a vinh hiển, đó là đứa trẻ đang sống trong thôn làng nhỏ bé và trong gia đình lao động của bà, như mọi đứa trẻ khác. Sau một chút xáo động lúc Người sinh ra, là sự chìm vào im lặng của một cuộc sống rất khiêm tốn.

Rồi có sự cố năm Đức Giê-su mười hai tuổi. Óc độc lập của Người quá ư bất thường và câu trả lời của Người quá ư hỗn láo nếu đã chẳng chất chứa biết bao mầu nhiệm: “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?”

Không, họ đã không biết, Lu-ca dám nói thế, “ông bà chẳng hiểu gì.” Như nhiều người từng choáng ngợp trước các biến cố, Đức Ma-ri-a cũng bị choáng ngợp. Nhưng bà vẫn cảm nhận mọi chuyện một cách sâu xa: “Bà hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng.” Bà suy niệm, bà chồng chất các sự kiện, các từ ngữ, các ánh sáng. Từ nay, mọi hành vi và lời nói nơi đứa con lạ lùng của bà, thay vì làm bà khép kín trước cái bất khả đạt, lại sẽ mở lòng bà ra và nâng bà mỗi lần một chút lên tới mầu nhiệm: “Hỡi con yêu của mẹ, con là ai?”

Đức Giê-su thấy ba nỗ lực đó: nỗ lực mở lòng, suy niệm và thích nghi. Lần kia, nghe một người phụ nữ la lên do phấn khởi cách hời hợt: “Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm!” Người đã đáp lại bằng một lời gợi ý hãy vào sâu hơn: “Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa!” (Lc 11,27-28).

Tại sao chúng ta chẳng đi đến trường học đức tin này? Không những tới một mẫu gương chiêm niệm mà còn tới với một người mẹ rất hạnh phúc được giúp đỡ chúng ta và thích nghi chúng ta với mầu nhiệm đức tin Ki-tô giáo vốn chẳng dễ dàng, người ta cảm thấy điều này khi nghe những người bỏ đạo và khi thấy sự tầm thường của chúng ta. Đã nghe mơ hồ nhiều lời, việc đó không đủ; phải khao khát đón nhận các lời nói và biến cố, rồi tiến dần tới tất cả mầu nhiệm Đức Giê-su nhờ mải miết suy niệm. Như Đức Ma-ri-a, Đấng đầu tiên đã đi trọn con đường và có thể hướng dẫn chúng ta.

Lm. Phêrô Phan Văn Lợi

NỖI ĐAU MẤT CHÚA VÀ NIỀM VUI TÌM LẠI NGÀI

Thánh Luca trong trích đoạn Tin Mừng của ông đã tả về nỗi đau lạc mất Chúa và niềm vui khi tìm lại Ngài qua biến cố Thánh Gia cùng về Giêrusalem mừng lễ. (2:41-52) Thánh ký ghi lại: “Và khi những ngày lễ đã hoàn tất, hai ông bà ra về, trẻ Giêsu đã ở lại Giêrusalem mà cha mẹ Người không hay biết. Tưởng rằng Người ở trong nhóm các khách đồng hành, hai ông bà đi được một ngày đàng, mới tìm kiếm Người trong nhóm bà con và những kẻ quen biết. Nhưng không gặp thấy Người, nên hai ông bà trở lại Giêrusalem để tìm Người.” (2:43-45)

Đau khổ, lo lắng, hồi hộp, và hối hận là tâm trạng của các cha mẹ khi lạc mất con mình. Mẹ Maria và Thánh Giuse cũng đã trải qua kinh nghiệm này, và đã được chính Mẹ nói ra. “Nhìn thấy Người, hai ông bà đã ngạc nhiên, và mẹ Người nói với Người rằng: “Con ơi, sao Con làm cho chúng ta như thế? Kìa cha Con và mẹ đây đã đau khổ tìm Con”. (2:48) Chúng ta ai có thể tưởng tượng là trong những ngày quay lại Giêrusalem tìm con, chắc hai ông bà đã ăn không ngon, và ngủ không yên giấc. Chúng ta cũng tin rằng, Đức Maria và Thánh Giuse thật sự không quan tâm đến việc thấy con mình được nổi nang ở giữa những bậc thông thái, những tiến sỹ, mà chỉ vui mừng, hạnh phúc vì đã tìm lại được con.

Qua câu truyện này, chúng ta tìm được ý nghĩa gì? Tại sao một biến cố như vậy lại có thể xảy ra cho Thánh Gia trong một dịp đặc biệt như thế? Phải chăng đây là một bài học rất thâm sâu mà Chúa Thánh Thần đã dùng ngòi bút của Thánh Luca để kể lại. Đặc biệt trong những ngày chúng ta mừng đại lễ kính Thánh Gia. Một gia đình với những kinh nghiệm đời thường như bao gia đình khác cũng đã trải qua những băn khoăn, lo lắng và đau khổ khi phải quan tâm, chăm sóc và giáo dục con cái, nhất là thời gian con bước vào tuổi dậy thì.

Câu chuyện do chính trẻ Giêsu gây ra. Ngài thật sự muốn gì và làm gì khi một mình ở lại Giêrusalem mà không nói với cha mẹ một tiếng? Qua biến cố này, có phải Ngài muốn cho những người làm cha mẹ không nên lơ là, coi nhẹ trách nhiệm quan tâm, lo lắng, hướng dẫn và giáo dục con cái. Ngài cũng muốn cho những đứa con mới lớn, những đứa con bỏ nhà đi hoang, những đứa con không vâng lời cha mẹ, biết nghĩ đến những thống khổ, vất vả và tình thương yêu của cha mẹ qua những gì mà mẹ và cha Ngài trong lúc đau khổ để tìm kiếm Ngài. Những tình cảm mà bất cứ cha mẹ nào trong những tình huống như vậy đều phải trải qua.

Dưới con mắt bình thường, trong biến cố này cả Đức Maria và Thánh Giuse đều xem như đã lơ là, ỷ lại vào nhau nên mới xảy ra chuyện lạc mất con. Thánh Luca còn ghi lại một câu khiến chúng ta phải để tâm suy nghĩ về cách thức cha mẹ đối với con cái, và con cái đối với cha mẹ: “Hai ông bà không hiểu lời Người nói.” (2:50) Điều này cho thấy trong nhiều trường hợp cha mẹ phải biết lắng nghe con cái. Lắng nghe là một nghệ thuật cần thiết của cha mẹ trong đường lối giáo dục. Nhẫn nại và chịu đựng là thái độ của vợ chồng khi giải quyết những chuyện bất ngờ xảy đến cho gia đình. Như Maria, Giuse đã im lặng, nhẫn nại trên đường tìm kiếm con.

Nhưng thâm sâu hơn về mặt nội tâm, đây không phải chỉ là bài học giáo dục, mà hơn thế nữa là một cơ hội để con người suy niệm về tình yêu của Thiên Chúa. Bài học tâm linh này sẽ giúp chúng ta hiểu hơn về tình yêu và sự quan phòng của Ngài dành cho mỗi người chúng ta. Tình thương yêu chan hòa ấy được phản ảnh qua tâm tình của người cha ngóng chờ đứa con hoang đàng trở về, nỗi vui mừng của bà góa tìm lại đồng tiền đã mất, của người chăn chiên tìm được con chiên đi lạc, hay niềm hạnh phúc trào dâng khi Ngài tha thứ cho người phụ nữ bị bắt vì tội ngoại tình. Trong những trường hợp ấy, Chúa Giêsu cũng lặp lại một cách tương tự những lời mà Ngài đã cảm nhận khi mẹ Ngài tìm thấy và nói với Ngài: “Con ơi, sao Con làm cho Cha như thế? Kìa! Cha đã đau khổ tìm Con!” (Luca 2:48)

Đức Maria, Thánh Giuse đã cảm nhận được nỗi đau khi lạc mất con, cũng như hạnh phúc khi tìm lại được Ngài. Những đau khổ của các ngài được đền đáp khi Chúa Giêsu “theo hai ông bà trở về Nagiarét, và Người vâng phục hai ông bà”. (Luca 2:51)

Lạc mất và tìm thấy. Dưới cái nhìn tâm linh hay thực tế trong đời sống, thì đây vẫn là một kinh nghiệm hết sức đặc biệt đối với một tâm hồn hay với một người. Bỏ Chúa, xa rời tình yêu của Ngài hay đi hoang, trốn chạy tình thương cha mẹ, chúng ta cũng nên biết rằng ở đâu đó trái tim Ngài, trái tim của cha mẹ đang đập những nhịp đập thổn thức, đang băn khoăn, lo lắng và thao thức tìm kiếm chúng ta.

Là con cái, dưới hình thức này hay hình thức khác, chúng ta đều đã có kinh nghiệm làm cho cha mẹ buồn rầu và đau khổ. Là Kitô hữu nhiều lần chúng ta cũng xa rời tình Chúa, lẩn trốn ánh mắt yêu thương của Ngài. Chúng ta có muốn bắt chước trẻ Giêsu, trở về và vâng lời cha mẹ, trở về với vòng tay yêu thương của Thiên Chúa? Hay ngược lại, cố chấp, ương ngạnh, chà đạp lên nỗi đau của cha mẹ, cũng là nỗi đau của chính Chúa để sống trong vòng tội lỗi, lạc xa tình Ngài.

Hãy quay về với vòng tay dịu hiền, với tình yêu bao la của Ngài.

Hãy quay về để cảm nghiệm sự ngọt ngào, ấm áp của tình thương cha mẹ và gia đình.

Trần Mỹ Duyệt

Nguồn: legiomariaevn

Chi tiết

Date:
28 Tháng 12
Series:
Event Categories:
,

Chúng ta đang trong MÙA VỌNG

Chúng ta đang trong mùa GIÁNG SINH

Chúng ta đang trong MÙA CHAY

Chúng ta đang trong TAM NHẬT VƯỢT QUA

Chúng ta đang trong MÙA PHỤC SINH

Chúng ta đang trong MÙA QUANH NĂM

Chúng ta đang trong MÙA QUANH NĂM